BỆNH DẠI
Bệnh dại là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do động vật gây ra cho người. Bệnh dại khi đã lên cơn thì không thể chữa khỏi nhưng hoàn toàn có thể phòng được bệnh.
Nội dung
1. Khái niệm về bệnh dại
1.1. Bệnh dại là gì?
Bệnh dại là bệnh nhiễm vi rút cấp tính của hệ thần kinh trung ương, lây từ động vật sang người qua chất tiết, thường là nước bọt bị nhiễm vi rút dại. Phần lớn các trường hợp phơi nhiễm với vi rút dại là qua vết cắn, vết liếm của động vật mắc bệnh dại, đôi khi qua đường tiếp xúc như hít phải khí dung hoặc cấy ghép mô tạng bị nhiễm vi rút dại. Khi đã lên cơn dại, kể cả động vật và người đều có tỷ lệ tử vong đến 100%.
Mặc dù đã được các nhà quản lý và các nhà chuyên môn liên tục khuyến cáo về việc tiêm vắc xin dại, nhưng tại Việt Nam, trung bình mỗi năm vẫn có trên dưới 100 người tử vong vì bệnh dại. Khi đã xuất hiện triệu chứng lâm sàng (lên cơn dại), người bệnh chắc chắn sẽ từ giã cuộc sống mà các bác sĩ cũng bất lực không thể cứu chữa được. Điều đáng nói, các ca tử vong vì dại chủ yếu là do chó, mèo của gia đình hoặc hàng xóm cắn. Chính tâm lý chủ quan “chó nhà” nên đã dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc.
Ổ chứa vi rút dại trong thiên nhiên thường là các loài động vật có vú như chó, mèo, dơi, cáo … Tổ chức Y tế Thế giới ước tính mỗi năm có khoảng 60.000 người chết vì bệnh dại trên toàn thế giới. Hầu hết những trường hợp tử vong xảy ra ở các nước nghèo vì không kiểm soát được bệnh dại ở động vật nuôi là chó, mèo.
1.2. Vi rút gây bệnh dại lây truyền thế nào
Bệnh dại lây từ nước bọt của động vật bị dại thông qua vết cắn, liếm. Ổ chứa vi rút dại trong thiên nhiên thông thường là động vật có máu nóng, đặc biệt là chó. Ngoài ra, vi rút dại cũng được phát hiện ở mèo, chồn, dơi và một số động vật có vú khác.
Khi vào cơ thể, vi rút dại xâm nhập vào các dây thần kinh ngoại biên, chạy dọc theo các dây thần kinh đến tủy sống và não bộ. Mỗi ngày, vi rút dại di chuyển được từ 12-24mm. Ngay khi vi rút đến não, người bệnh mới thật sự có những dấu hiệu lâm sàng rõ ràng.
Thời gian ủ bệnh dại có thể dưới 1 tuần hoặc trên 1 năm, phụ thuộc vào số lượng vi rút xâm nhập cơ thể, sự nặng nhẹ của vết thương, khoảng cách từ vết thương đến hệ thần kinh trung ương… Vết thương càng ở gần hệ thần kinh trung ương như mặt, cổ, đầu, ngón tay, cơ quan sinh dục ngoài… thì thời gian ủ bệnh sẽ càng ngắn.
2. Nguyên nhân bệnh dại
Dại là căn bệnh vô cùng nguy hiểm. Khi đã phát bệnh, 100% cả người bị cắn và vật cắn đều tử vong. Tuy nhiên nhiều người vẫn còn chủ quan lơ là, chưa hiểu rõ về bệnh dại nên rất chủ quan hoặc điều trị sai cách gây nguy hiểm đến mạng.

Bệnh dại do vi rút dại thuộc giống Lyssavirus, họ Rhabdoviridae gây ra. Vi rút này có trong nước bọt của những động vật bị bệnh dại. Động vật nhiễm bệnh sẽ lây bệnh dại cho động vật hoặc cho người thông qua vết cắn. Trong một vài trường hợp, bệnh dại có thể lây nhiễm thông qua sự tiếp xúc với nước bọt, vết thương hở, niêm mạc như niêm mạc mắt, mũi. Chẳng hạn như động vật bị nhiễm bệnh dại nhưng vẫn còn trong giai đoạn ủ bệnh liếm lên vết thương trên da của người thì người đó có thể bị nhiễm bệnh.
Có 2 chủng vi rút dại:
- Vi rút dại đường phố là vi rút dại tồn tại trên động vật bị bệnh;
- Vi rút dại cố định (cố định thời gian ủ bệnh trên động vật).
Ngoài ra, một số yếu tố nguy cơ khác có thể gây bệnh dại ở người nếu:
- Đến hoặc sinh sống ở những đất nước kém phát triển, nơi bệnh dại phổ biến, bao gồm các quốc gia ở châu Phi và Đông Nam Á.
- Những hoạt động tiếp xúc với động vật hoang dã mang mầm bệnh dại như thám hiểm hang động nơi có nhiều loài dơi sinh sống, hoặc đi cắm trại nhưng lại không đề phòng việc chỗ ở có nhiều động vật hoang dã sinh sống hay không.
- Làm việc trong môi trường có nhiều vi rút dại như nhân viên phòng thí nghiệm, bác sĩ thú y, huấn luyện động vật hoang dã.
3. Triệu chứng
Có 2 thể bệnh dại chính bao gồm:
3.1. Thể viêm não: Triệu chứng ban đầu là sốt, nhức đầu hoặc kiệt sức, kèm theo chán ăn, mất ngủ, bồn chồn, đồng thời xuất hiện triệu chứng sợ nước, sợ gió. Ở giai đoạn tiến triển, bệnh nhân tăng tiết nước bọt nên không thể nhai, nuốt và thường xuyên khạc nhổ. Sau đó, đồng tử bệnh nhân sẽ bị giãn nên mắt nhìn sáng long sòng sọc, co thắt hầu họng, xuất tinh tự nhiên, cường dương và sẽ tử vong nhanh chóng.
3.2. Thể liệt: Xuất hiện triệu chứng liệt từ tay, chân đến các cơ, rối loạn tiểu tiện, đại tiện. Ngay khi liệt lan đến cơ hô hấp thì bệnh nhân sẽ tử vong. Trong một số trường hợp, người bị chó cắn vì quá lo sợ nên đã ám ảnh mình bị dại và sinh ra nhiều biểu hiện, hành động và âm thanh khác thường. Đó là những trường hợp được coi là giả dại. Trên thực tế, người bị dại sẽ hoàn toàn tỉnh táo cho đến lúc chết chứ không hề điên dại.
4. Chẩn đoán
Bệnh dại gồm các giai đoạn bệnh như sau:
4.1. Giai đoạn ủ bệnh: trung bình 20-60 ngày nhưng có thể kéo dài từ 4 ngày đến hàng năm sau (trong y văn ghi nhận có trường hợp ủ bệnh đến 19 năm), thời kỳ ủ bệnh ngắn khi vết thương ở vùng đầu mặt hoặc lây bệnh qua ghép giác mạc.
4.2. Giai đoạn khởi phát: thường 2-10 ngày, biểu hiện cảm giác sợ hãi, đau đầu, sốt, mệt mỏi, khó chịu, cảm giác tê và đau tại vết thương nơi vi rút xâm nhập.
4.3. Giai đoạn toàn phát hoặc “giai đoạn viêm não”: thường biểu hiện mất ngủ, tăng cảm giác kích thích như sợ ánh sáng, tiếng động và gió nhẹ. Ngoài ra, còn có rối loạn hệ thần kinh thực vật như giãn đồng tử, tăng tiết nước bọt, vã mồ hôi, hạ huyết áp … Bệnh tiến triển theo hai thể: thể liệt và thể hung dữ (chiếm 80%). Giai đoạn này thường kéo dài 2- 6 ngày, đôi khi lâu hơn và chết do liệt cơ hô hấp. Thể liệt thường sống lâu hơn thể hung dữ vài ngày.
– Chẩn đoán sơ bộ bệnh dại: thường dựa vào các yếu tố dịch tễ có liên quan (bị chó cắn, mèo cắn…) và các triệu chứng lâm sàng, đặc biệt là sợ nước, sợ gió, sợ ánh sáng.
– Chẩn đoán xác định bệnh dại: bằng xét nghiệm kháng thể miễn dịch huỳnh quang trực tiếp từ mô não hoặc phân lập vi rút trên chuột hay trên hệ thống nuôi cấy tế bào. Có thể dựa vào kết quả xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang của các mảnh cắt da đã làm đông lạnh lấy từ dìa tóc ở gáy bệnh nhân hoặc chẩn đoán huyết thanh bằng phản ứng trung hoà trên chuột hay trên nuôi cấy tế bào. Ngày nay, với kỹ thuật mới chẩn đoán bệnh dại có thể được thực hiện bằng cách phân lập vi rút hoặc phát hiện RNA của vi rút dại bằng xét nghiệm sinh học phân tử (PCR) từ nước bọt, dịch não tủy, nước tiểu, mô sinh thiết (não, da).
5. Điều trị
Việc điều trị bệnh dại cần được tiến hành tại các cơ ở y tế chuyên khoa, nơi có đội ngũ thầy thuốc đủ kiến thức, kinh nghiệm; có đủ máy móc trợ giúp, thuốc và các phương pháp xét nghiệm chẩn đoán và theo dõi kết quả điều trị.
Hiện chưa có phương thức điều trị đặc hiệu cho bệnh dại. Điều trị chủ yếu là điều trị hỗ trợ (oxy liệu pháp, thở máy, truyền dịch, vận mạch) và chăm sóc giảm nhẹ (an thần, giảm đau, chống co giật …).
6. Phòng bệnh
Tuyên truyền, giáo dục sức khỏe: Cung cấp những thông tin cần thiết về bệnh dại và cách phòng chống bệnh dại, nhất là việc phát hiện súc vật bị bệnh dại, cách xử lý sau khi bị súc vật cắn hoặc tiếp xúc; đến các cơ sở y tế Dự phòng để khám, tư vấn và điều trị dự phòng kịp thời.
Phối hợp giữa cơ quan thú y và cơ quan y tế để thực hiện giám sát nơi có ổ dịch chó dại cũ, nơi thường xảy ra bệnh dại ở súc vật, những nơi mua bán súc vật nhất là chó, mèo.

Quản lý vật nuôi bằng các biện pháp:
– Thực hiện đăng ký, cấp giấy phép cho chủ nuôi chó, mèo…;
– Tiêm vắc xin dại có hiệu lực cho đàn chó, mèo đạt trên 85% trong quần thể súc vật nuôi.
– Những người có nguy cơ bị nhiễm vi rút dại như nhân viên thú y, kiểm lâm, làm việc trong phòng thí nghiệm có vi rút dại… cần được gây miễn dịch bằng vắc xin dại tế bào có hiệu lực bảo vệ cao và tiêm nhắc lại theo chỉ định của y tế.
Đối với những người bị chó, mèo cắn phải thực hiện nghiêm ngặt các việc sau:
– Xử lý vết thương: Rửa ngay thật kỹ vết cắn bằng nước xà phòng đặc, sau đó rửa bằng nước muối, bôi chất sát trùng như cồn, cồn iốt để làm giảm lượng vi rút tại vết cắn. Chỉ khâu vết thương trong trường hợp vết cắn đã quá 5 ngày. Tiêm vắc xin uốn ván và điều trị chống nhiễm khuẩn nếu cần.
– Bảo vệ bằng miễn dịch đặc hiệu: Dùng vắc xin dại tế bào hoặc dùng cả vắc xin và huyết thanh kháng dại để điều trị dự phòng tuỳ theo tình trạng súc vật, tình trạng vết cắn, tình hình bệnh dại ở súc vật trong vùng. Không được lạm dụng trong sử dụng vắc xin và huyết thanh kháng dại.
Việc khám bệnh nhân bị súc vật cắn hoặc tiếp xúc để có chỉ định điều trị dự phòng bằng vắc xin dại hoặc vắc xin phối hợp với Huyết thanh kháng dại phải thực hiện càng sớm càng tốt. Hiệu quả điều trị dự phòng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: loại vắc xin, kỹ thuật tiêm, điều kiện bảo quản sinh phẩm, đáp ứng miễn dịch của người bệnh. Việc giám sát, kiểm soát để thực hiện các nội dung chuyên môn là hết sức cần thiết.
Vắc xin dại: vắc xin dại tế bào là tốt nhất, đây là vắc xin an toàn và hiệu lực bảo vệ cao. Việt Nam đã dùng vắc xin dại tế bào Verorab, có 2 phác đồ dưới đây được WHO đồng ý và khuyến cáo sử dụng:
– Phác đồ tiêm bắp: 0,5ml x 5 liều cho một đợt điều trị dự phòng vào ngày 0, 3, 7, 14, 28.
– Phác đồ tiêm trong da: liều đơn 0,1ml x 8 liều cho một đợt điều trị dự phòng vào ngày 0, 3, 7, mỗi ngày tiêm 2 liều đơn vào 2 vị trí khác nhau của vùng cơ Delta, tiêm tiếp vào ngày 28 và ngày 90 kể từ mũi tiêm thứ nhất, mỗi ngày 1 liều vào cơ Delta.
Tác giả bài viết:
TS. Nguyễn Triệu Vân
Bác sĩ cao cấp, cố vấn chuyên môn của Napharco.
CÔNG TY TNHH DƯỢC PHẨM NAPHARCO
Địa chỉ: Đường D1, Khu công nghiệp Yên Mỹ II, Thị trấn Yên Mỹ, Huyện Yên Mỹ, Tỉnh Hưng Yên
Điện thoại: 02213.766.338
Hotline: 0916.953.559
Mail: napharcopharma.corp@gmail.com