BỆNH UNG THƯ HẬU MÔN
Hậu môn là nơi tiếp nối của trực tràng và là bộ phận cuối cùng của đường tiêu hoá. Ung thư hậu môn ít gặp hơn so với các ung thư khác, thường gặp ở người trên 60 tuổi.
1. Khái niệm về bệnh ung thư hậu môn
Hậu môn là lỗ mở ở cuối của ruột già, là đoạn tiếp theo của trực tràng. Hậu môn là nơi nhu động ruột rời khỏi cơ thể, do đó chức năng chính của hậu môn là đào thải phân. Thức ăn sau khi được tiêu hóa sẽ đi từ dạ dày đến ruột non, sau đó di chuyển vào phần chính của ruột già (gọi là đại tràng), đại tràng hấp thu nước và muối từ thức ăn được tiêu hóa. Chất thải còn sót lại sau khi đi qua đại tràng được gọi là phân và được đưa ra khỏi cơ thể qua phần cuối của ruột già, đó chính là hậu môn.
Ung thư hậu môn là tình trạng các tế bào ở lớp niêm mạc (lớp lót bên trong ống hậu môn) phân chia mất kiểm soát, hình thành các khối u. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm, các tế bào ung thư có thể di căn đến các cơ quan khác trong cơ thể như phổi, xương, gan, thận…
Về giải phẫu, ống hậu môn dài khoảng 3 – 4 cm, từ bờ ngoài hậu môn đến vòng nối hậu môn – trực tràng. Đường lược nằm trong ống hậu môn và chia ranh giới hai loại mô học: phía trên đường lược là kiểu niêm mạc của đại trực tràng, phía dưới đường lược là biểu mô gai không sừng hóa. Ngay tại đường lược là biểu mô chuyển tiếp. Giới hạn của hậu môn là một rìa da cách quanh hậu môn 5 cm đường kính.
Dẫn lưu hạch bạch huyết: phần trên đường lược được dẫn lưu dọc theo bó mạch trĩ đến hạch cạnh trực tràng và hạch chậu trong; phần dưới đường lược và bờ ngoài hậu môn được dẫn lưu đến hạch bẹn.

2. Nguyên nhân gây bệnh
Theo các nghiên cứu, có đến 80% các trường hợp chẩn đoán mới ung thư hậu môn đều gặp ở những người trên 60 tuổi. Trong đó trước 35 tuổi, nam giới có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn so với nữ giới. Tuy nhiên đối với những người trên 50 tuổi, tỷ lệ mắc ở nữ giới cao hơn. Và cũng theo thống kê, nam giới độc thân có tỷ lệ mắc ung thư hậu môn cao gấp 6 lần nam giới đã lập gia đình.
Cho đến nay, nguyên nhân gây ung thư hậu môn vẫn chưa được xác định chính xác nhưng có nhiều nhóm nguy cơ được tìm thấy ở bệnh nhân mắc ung thư hậu môn. Một số nhóm nguy cơ thể gặp như sau:
- Suy giảm miễn dịch: người suy giảm miễn dịch như nhiễm HIV, người ghép tạng, người dùng các thuốc ức chế miễn dịch có nguy cơ mắc ung thư hậu môn cao hơn các nhóm khác.
- Quan hệ tình dục không an toàn (qua đường hậu môn hoặc có nhiều bạn tình): làm tăng nguy cơ nhiễm vi rút u nhú (HPV) ở người và ung thư hậu môn.
- Nhiễm vi rút u nhú ở người: Các nghiên cứu đã chứng minh nhiễm HPV là yếu tố nguy cơ của ung thư hậu môn. Quan hệ tình dục với người nhiễm vi rút u nhú ở người HPV là đường lây truyền phổ biến nhất.
- Hút thuốc lá: Đây là yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể, trong đó có ống hậu môn. Người hút thuốc lá nguy cơ bị ung thư hậu môn tăng gấp 8 lần so với người không hút thuốc.
- Rò hậu môn kéo dài: Đây là tình trạng lỗ rò thông thương giữa ống hậu môn và da bên ngoài. Lỗ rò thường xuyên chảy dịch, phân gây kích thích các mô xung quanh lỗ hậu môn.
3. Triệu chứng của bệnh
3.1. Triệu chứng
Triệu chứng ung thư hậu môn giai đoạn đầu thường không rõ ràng và không đặc hiệu. Bệnh nhân ung thư hậu môn có thể xuất hiện các triệu chứng sau:
- Ngứa quanh hậu môn;
- Chảy máu từ hậu môn: máu thường đỏ tươi, có thể là rỉ máu đỏ tươi;
- Xuất hiện một khối quanh hậu môn;
- Đau rát, khó chịu quanh hậu môn: cảm giác đau tức nặng vùng hậu môn;
- Cảm giác muốn đi đại tiện liên tục;
- Rối loạn tiêu hóa: thường xuyên táo bón hay tiêu chảy;
– Thay đổi khuôn phân.
3.2. Giai đoạn bệnh
Ung thư hậu môn được chia làm 4 giai đoạn dựa vào các chỉ số T (tumor – khối u), N (node- hạch) và M (metastasis- di căn).
- Giai đoạn 1: Khối u nhỏ hơn 2 cm và không có di căn hạch hay di căn xa.
- Giai đoạn 2: Khối u lớn hơn 2 cm và không có di căn hạch hay di căn xa.
- Giai đoạn 3A: Khối u có kích thước bất kỳ và xâm lấn tới hạch bạch huyết hoặc cơ quan lân cận (tử cung, bàng quang, âm đạo…).
- Giai đoạn 3B: Khối u xâm lấn tới cơ quan lân cận nhưng hạch bạch huyết giới hạn xung quanh trực tràng, chưa có di căn xa. Hoặc khối u có kích thước bất kỳ, xâm lấn hạch vùng hoặc hạch bạch huyết xa nhưng không có di căn xa.
- Giai đoạn 4: ung thư hậu môn giai đoạn cuối, khối u di căn xa tới cơ quan khác.
Ung thư hậu môn tái phát: là tình trạng ung thư trở lại sau khi điều trị.
4. Chẩn đoán bệnh
Đầu tiên, bác sĩ sẽ khai thác bệnh sử về thời gian xuất hiện các triệu chứng, tiền sử nhiễm HIV, viêm đại tràng hoặc xạ trị trước kia, thói quen sinh hoạt tình dục…
Sau khi khai thác thông tin bệnh sử và thói quen sinh hoạt, bác sĩ sẽ tiến hành thăm khám và đưa ra chỉ định cận lâm sàng cần thiết nhằm thu thập đủ thông tin để chẩn đoán bệnh ung thư hậu môn:
- Khám hậu môn – trực tràng bằng tay: mục đích kiểm tra, tìm kiếm các dấu hiệu bất thường trong ống hậu môn.
- Khám hạch bẹn 2 bên.
- Khám phụ khoa: đối với những bệnh nhân là nữ giới.
- Xét nghiệm máu: làm xét nghiệm nhiễm HIV.
- Nội soi ống hậu môn: giúp đánh giá trực tiếp tổn thương và sinh thiết khi có tổn thương nghi ngờ.
- Siêu âm qua đường hậu môn: giúp đánh giá tình trạng hạch vùng lân cận.
- Chụp X-quang phổi, chụp cắt lớp vi tính toàn thân (CT-scan) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI): nhằm đánh giá mức độ xâm lấn của u và tình trạng di căn xa.
- Chụp PET/CT: dùng để đánh giá mức độ lan rộng của u, di căn hạch vùng và di căn xa. Ngoài ra còn dùng để đánh giá đáp ứng sau điều trị.

5. Điều trị bệnh
Điều trị ung thư hậu môn hiện nay có 3 phương pháp chính: phẫu thuật, xạ trị và hóa chất. Phác đồ điều trị phụ thuộc vào các yếu tố:
- Loại ung thư hậu môn, giai đoạn của bệnh;
- Cân nhắc các biến chứng hay tác dụng phụ của điều trị;
- Lựa chọn của bệnh nhân;
- Thể trạng bệnh nhân.
5.1. Phẫu thuật
– Giai đoạn sớm (1,2): Cắt bỏ khối u hậu môn và một số tổ chức xung quanh. Sau đó, bệnh nhân được theo dõi định kỳ.
– Giai đoạn muộn (3,4): Trước kia đa số bệnh nhân ung thư hậu môn giai đoạn muộn vẫn được chỉ định phẫu thuật. Tuy nhiên với tiến bộ của xạ trị và hóa chất thì các bệnh nhân ung thư hậu môn giai đoạn muộn không có chỉ định phẫu thuật mà thay bằng phối hợp hóa, xạ trị đồng thời.
– Trường hợp khối u tiến triển hoặc tái phát bệnh nhân có thể được chỉ định làm hậu môn nhân tạo.
5.2. Xạ trị
Trong ung thư hậu môn, phương pháp xạ trị thường được phối hợp với hóa chất. Bệnh nhân thường được xạ trị liên tục 5 ngày/tuần trong 5-6 tuần.
Biến chứng xạ trị: mệt mỏi, phản ứng da từ nhẹ đến vừa, rối loạn tiêu hóa, cảm giác khó chịu khi đi vệ sinh, các kích thích hậu môn tạm thời (đỏ da, sưng phồng…).
5.3. Hóa trị
Trong điều trị ung thư hậu môn phác đồ hóa chất thường kết hợp nhiều thuốc ví dụ: fluorouracil (5-FU, Adrucil) kết hợp với Mitomycin C (Mitozytrez, Mutamycin) hoặc Cisplatin. Bệnh nhân nhiễm HIV mắc ung thư hậu môn cần dùng liều thấp hơn vì phụ thuộc vào hệ miễn dịch của bệnh nhân.
Tác dụng phụ của hóa chất bao gồm mệt mỏi, nôn và buồn nôn, rụng tóc, tiêu chảy, chán ăn.
6. Phòng bệnh
Hiện nay vẫn chưa có các biện pháp phòng ngừa ung thư hậu môn đặc hiệu. Một số biện pháp giúp phòng ngừa có thể bao gồm:
- Không hút thuốc lá.
- Ăn uống khoa học, rèn luyện thường xuyên.
- Quan hệ tình dục an toàn, hạn chế quan hệ nhiều bạn tình, sử dụng bao cao su khi quan hệ qua đường hậu môn nhằm hạn chế nguy cơ nhiễm HIV, HPV…
- Tiêm phòng vắc xin phòng ngừa virus u nhú HPV ở người.
- Khám sức khoẻ định kỳ ít nhất 6 tháng/lần.
Tác giả bài viết:
TS. Nguyễn Triệu Vân
Bác sĩ cao cấp, cố vấn chuyên môn của Napharco.
CÔNG TY TNHH DƯỢC PHẨM NAPHARCO
Địa chỉ: Đường D1, Khu công nghiệp Yên Mỹ II, Thị trấn Yên Mỹ, Huyện Yên Mỹ, Tỉnh Hưng Yên
Điện thoại: 02213.766.338
Hotline: 0916.953.559
Mail: napharcopharma.corp@gmail.com